Có thể nói trong di sản vô giá tư tưởng Hồ Chí Minh, có một bộ phận quan trọng là tư tưởng của Người về phụ nữ.
Dù là phương diện nào thì Người đều thông cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của họ, Người đề cao đức hy sinh của họ, tìm cách thức tỉnh và tạo điều kiện để họ được giải phóng, tham gia cách mạng với tư cách là nửa quan trọng của thế giới.
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du; đồng thời còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai…
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:“Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”,“Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng”, “Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại”.Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hoặc đời sống hàng ngày, phụ nữ Việt Nam đã có vị trí, vai trò rất to lớn.
Cả cuộc đời phấn đấu hy sinh cho dân tộc, giải phóng phụ nữ luôn là khát vọng cháy bỏng của Người và Người luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ ở thế kỷ XX. Nhưng đồng thời Người luôn thức tỉnh phụ nữ muốn được giải phóng, chị em cũng phải đấu tranh, không ngừng học hỏi, đoàn kết, làm trọn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình – đó là những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho phụ nữ. Người đã khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội, nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người”[1].
Qua những bài nói, bài viết và bằng những việc làm cụ thể, Người đã thể hiện sự quan tâm rất lớn đến công tác phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cảm thông sâu sắc với thân phận của người phụ nữ trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Người đề cao đức hi sinh của họ, thức tỉnh họ, giúp họ đến với lý tưởng của Đảng. Cả cuộc đời của Người đã dành trọn cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc, đồng thời Người cũng mong muốn giải phóng cho phụ nữ. Công cuộc giải phóng phụ nữ là vấn đề cấp thiết và cần phải tiến hành đồng thời với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Người cho rằng, để giải phóng mình thì chị em phải đấu tranh, không ngừng học hỏi, đoàn kết, làm tròn trách nhiệm của mình. Người khẳng định: “Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập…”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở Đảng và Nhà nước phải quan tâm đến công tác phụ nữ. Di chúc thiêng liêng của Người đã chỉ rõ: “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”[2]. Trong chiến tranh thì phụ nữ Việt Nam nêu cao khẩu hiệu với tám chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, ngày nay chị em phụ nữ luôn thi đua với phong trào hai giỏi: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Ở nước ta hiện nay, bình đẳng giới luôn là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vai trò của người phụ nữ được thể hiện rõ qua Nghị quyết số 04 của Bộ Chính trị (1993) đã nêu rõ 4 mục tiêu: “Cải thiện đời sống tinh thần và vật chất của người phụ nữ” và “nâng cao địa vị xã hội của người phụ nữ và nhận thức về quyền bình đẳng của họ”. Ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020. Với các mục tiêu và chỉ tiêu đặt ra nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị:Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 – 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2020 trên 35%. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Ngày nay, phụ nữ nhận thức được vai trò trách nhiệm của mình, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chính trị, năng lực chuyên môn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Họ không chỉ là người mẹ hiền đảm đang giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà còn là những nhà khoa học, những vị lãnh đạo tài năng có những cương vị cao trong các cơ quan Đảng và Nhà nước từ cơ sở đến Trung ương, xứng đáng với sự quan tâm và tin tưởng của Bác Hồ.
Sự quan tâm của Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam thật nhân ái bao la, chúng ta vô cùng biết ơn Người và hiểu rằng con đường mà Người đưa lại cho phụ nữ còn nhiều khó khăn, trở ngại song đó là con đường duy nhất đúng đắn. Nhìn lại những chặng đường 82 năm phụ nữ đã đi qua, những anh hùng lao động, những chiến sỹ thi đua, những tấm huân chương, những giải thưởng khoa học là bằng chứng ghi nhận công lao đóng góp của chị em phụ nữ, dấu ấn ghi đậm truyền thống phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang.
Minh Châu